NGUỒN GỐC VÀ ĐÔI NÉT HỌ TRẦN
Nguồn: wiki
Nguồn gốc
Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnhPhúc Kiến,Trung Hoa.Trần Quốc MinhtừPhúc KiếnhátViệt Namvào khoảng năm 1110, thời vuaLý Nhân Tông(1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyệnĐông Triều, tỉnhQuảng Ninhngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện Thiên Trường (Nam Định), Đến đờiTrần Hấpdời mộ tổ sang sinh sống tại Tam Đường, phủ Long Hưng, nay là vùng đất thuộcThái Bình.[1]
Căn cứ vào gia phả họTrầnở Nhạc Dương do thống tôn đời thứ 27 Trần Định Nhân còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa từ đờiChiến quốc, họTrầnthuộc nhóm tộc ngườiBách Việtsống ở đất Mân (Phúc Kiến-Trung Quốc). Năm 227 trước công lịch, Phương chính hầu Trần Tự Minh đang làm quan choTriệu Đà, vì mâu thuẫn giữa ngườiHánvà ngườiBách Việtông đã theo dòng ngườiBách Việtdi cư xuống phía Nam. Tự Minh được vuaAn Dương Vươngthu nạp, trở thành vị tướng tài ba, cùngCao Lỗgiúp vua chống lạiTriệu Đà. Khi thànhCổ Loathất thủ,Âu Lạcrơi vào tayTriệu Đà, Trần Tự Minh lui về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc. Dòng họ này qua 700 năm ở Kinh Bắc phân ra nhiều nhánh, nhưng dòng thống tôn đến đời Trần Tự Viễn (582 - 637) nổi lên như một nhân tài kiệt xuất của xứGiao Châu.
Trần Quốc Minhkhi dời từ An Sinh (Quảng Ninh) về Tức Mạc (Nam Định) lấy vợ sinh ra Trần Hấp.Trần Hấpdời mộ cha sang sinh sống tại Long Hưng (Thái BìnhSinh RaaTrần LývàTrần Hoằng Nghi.Trần LýSinha RaaTrần Thừa(sau được tôn làTrần Thái Tổ),Trần Tự KhánhvàTrần Thị Dung.Trần Hoằng Nghisinh được ba người con trai:Trần An Quốc,Trần An BangvàTrần Thủ Độ.[2].
Nguồn gốc tên
Một công trình trong quần thểđền Trần, Nam Định, Việt Nam
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa làcá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha củaTrần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.